Ngày nay người ta tìm đủ mọi cách để biện minh cho các hành vi trái luân
lý của mình. Thay vì nhận trách nhiệm, thì họ đổ lỗi cho xã hội, cho di
truyền, cho hoàn cảnh và cho giáo dục. Thay vì làm chủ các hành vi của
mình thì họ đòi buộc người khác không những phải chấp nhận những hành vi
vô luân của mình mà còn tìm cách hợp thức hóa chúng qua luật pháp và
giáo dục. Mục đích là đưa mọi người, nhất là các thế hệ tương lai đến
tình trạng tương đối về luân lý. Xã hội thế tục càng hợp thức hoá những
điều vô luân thì chúng ta, những người Công Giáo càng phải triệt để bảo
vệ luân lý và giúp con cái chúng ta đào luyện một lương tâm ngay thẳng
theo giáo huấn của Đức Kitô và luật tự nhiên. Để góp phần vào việc giúp
đào luyện lương tâm, chúng tôi xin tóm tắt những điều trong Sách Giáo Lý
của Hội Thánh Công Giáo để những ai không có thì giờ đọc Sách Giáo Lý
có thể có một cái nhìn tổng quát về Giáo Huấn của Hội Thánh về tính luân
lý của các hành vi của mình và làm thế nào để thực sự sống theo lương
tâm.
I. Tính Luân Lý của các Hành Vi Con Người
1. Tự Do và Trách Nhiệm
Tự
do là khả năng bắt nguồn từ lý trí và ý chí để chọn làm hay không làm
điều gì, nhờ đó con người có thể làm những việc có ý thức và chịu trách
nhiệm về việc mình làm. Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về
Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Tự do còn bao hàm khả năng lựa
chọn giữa thiện và ác. Vì có tự do, nên con người có công hay có tội.
Con người chỉ có tự do đích thực khi làm điều thiện. Khi chọn điều ác,
con người lạm dụng tự do và trở nên nô lệ tội lỗi. Có tự do, con người
phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình theo mức độ chủ ý. Lỗi và
trách nhiệm về một hành động có thể được giảm bớt hay xóa bỏ vì thiếu
hiểu biết, sơ suất, áp lực, sợ hãi, thói quen, tâm thần bất ổn, hoặc các
yếu tố tâm lý hay xã hội. Con người phải chịu trách nhiệm về mọi hành
vi trực tiếp chủ ý của mình. Quyền sử dụng tự do, đặc biệt trong lãnh
vực luân lý và tôn giáo, là một đòi hỏi không thể tách rời khỏi phẩm giá
con người. Luật dân sự phải công nhận và bảo vệ quyền này, trong giới
hạn công ích và trật tự công cộng (X. GLCG 1731-1738). Tự do làm cho con
người thành một chủ thể luân lý. Khi hành động có chủ ý, con người được
coi là cha của các hành vi của mình. Các hành vi được tự do lựa chọn
theo phán đoán lương tâm, đều có tính luân lý: có thể là tốt hay xấu (X.
GLCG 1749).
2. Nguồn gốc của luân lý (X. GLCG 1750-1754)
Luân lý tính của các hành vi con người tùy thuộc vào:
• đối tượng được chọn lựa;
• mục đích nhắm tới hay ý hướng;
• các hoàn cảnh của hành động.
Ðối
tượng, ý hướng và các hoàn cảnh tạo nên yếu tố cấu thành luân lý tính
của các hành vi con người. Ðối tượng được lựa chọn xác định luân lý tính
của hành vi ý chí, tùy theo sự nhận biết và phán đoán của lý trí. Ý
hướng phát xuất từ ý chí tự do và xác định mục đích của hành động, nên
là một yếu tố căn bản để đánh giá luân lý tính của hành động. Ý hướng có
thể định hướng toàn bộ cuộc sống chúng ta đến một cùng đích. Cứu cánh
không biện minh cho phương tiện. Một ý hướng tốt không thể làm cho một
hành vi xấu thành tốt. Ngược lại, một việc tốt có thể trở thành xấu vì
làm với ý xấu. Các hoàn cảnh, kể cả những hậu quả, là những yếu tố phụ
của một hành vi luân lý. Chúng không thể làm cho một hành vi tự nó là
xấu, trở nên tốt hay đúng, nhưng có thể góp phần gia tăng hay giảm bớt
tính chất tốt hay xấu về mặt luân lý của những hành vi con người.
3. Hành vi tốt và hành vi xấu (X. GLCG 1575-1562)
Một
hành vi tốt về mặt luân lý đòi hỏi đối tượng, mục đích và các hoàn cảnh
đều phải tốt. Đối tượng được lựa chọn có thể làm cho toàn bộ hành động
trở nên xấu. Có những hành vi luôn luôn là sai, vì ngay khi chọn lựa, ý
chí đã lệch lạc; đó là một điều xấu luân lý. Không được phép làm điều
xấu để đạt một kết quả tốt. Chưa cần xét đến hoàn cảnh và ý hướng, có
những hành vi tự bản chất luôn là bất chính nghiêm trọng do đối tượng.
II. Tính Luân Lý của Những Đam Mê
Đam mê hay cảm xúc mà một người cảm nghiệm có thể giúp người ấy chuẩn bị và góp phần vào việc đi tìm hạnh phúc (X. GLCG 1762).
1. Các đam mê (1763-1766)
Đam
mê hay cảm xúc là những tình cảm hay xúc động cảm giác làm cho chúng ta
có khuynh hướng làm hay không làm điều chúng ta cảm thấy là tốt hay
xấu. Các đam mê là thành phần tự nhiên của sinh hoạt tâm lý con người.
Chúng nối kết đời sống cảm giác và đời sống tinh thần. Ðức Kitô gọi tâm
hồn là nguồn phát xuất các đam mê. Có nhiều thứ đam mê. Trong số các đam
mê có yêu, ghét, ước muốn, lo sợ, buồn phiền, và nóng giận. Yêu là đam
mê căn bản, là muốn điều tốt cho người khác. Tất cả những đam mê khác
đều bắt nguồn từ rung động nguyên thủy này của tâm hồn hướng về điều
thiện hảo. Ðam mê xấu khi tình yêu xấu, đam mê tốt khi tình yêu tốt.
2. Ðam mê và đời sống luân lý (X. GLCG 1767-1775)
Tự
bản chất, đam mê không tốt không xấu. Ðam mê mang giá trị luân lý tùy
mức độ liên hệ thật sự với lý trí và ý chí. Muốn đạt tới mức hoàn hảo
luân lý, con người cần phải dùng lý trí điều khiển các đam mê. Về phương
diện luân lý, đam mê tốt nếu góp phần vào một việc làm tốt, và xấu nếu
ngược lại. Ý chí ngay thẳng hướng các cảm xúc về điều lành và hạnh phúc
thật, ý chí xấu không chống nổi các đam mê hỗn loạn và làm cho chúng trở
nên dữ dội hơn. Các cảm xúc và tình cảm có thể được đón nhận trong các
nhân đức, hoặc bị băng hoại trong các thói xấu. Trong đời sống Kitô hữu,
Chúa Thánh Thần thực hiện công trình của Ngài bằng cách huy động mọi sự
nơi con người, kể cả những đau khổ, sợ hãi và buồn phiền, như trong cơn
hấp hối và cuộc khổ nạn của Ðức Kitô. Trong Ngài, những tình cảm của
chúng ta được kiện toàn nhờ đức ái và hạnh phúc đích thực. Con người đạt
tới mức hoàn thiện luân lý bằng cách vươn tới điều thiện hảo, không chỉ
với ý chí, mà còn với cả tâm hồn.
III. Lương Tâm
Tận
đáy lòng, con người khám phá ra một lề luật mà chính họ không đặt ra,
nhưng phải tuân theo, đó là tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi họ
làm lành lánh dữ. Tiếng nói ấy vang lên đúng lúc trong tâm hồn. Đó thật
là một lề luật Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người (X. GLCG 1776).
Tuy nhiên lương tâm có thể bị lầm lạc nếu không được huấn luyện, và có
thể bị ra chai đá và không còn hiệu quả khi một người cố tình chà đạp
kương tâm của mình cách thường xuyên.
1. Phán quyết của lương tâm (X. GLCG 1777-1782)
Phán
quyết của lương tâm là phán quyết của lý trí, nhờ đó ta biết một hành
vi cụ thể là tốt hay xấu. Lương tâm hiện diện trong lòng ta và ra lệnh
đúng lúc cho ta làm lành lánh dữ. Lương tâm phán đoán các lựa chọn cụ
thể bằng cách tán thành lựa chọn tốt, tố giác lựa chọn xấu. Khi nghe
theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan có thể cảm nhận được Thiên Chúa
đang nói với mình. Nhờ phán quyết của lương tâm, con người ý thức và
nhận ra những quy định của luật Thiên Chúa. Mỗi người phải quay về với
nội tâm, để có thể nghe được và tuân theo tiếng lương tâm. Phẩm giá của
nhân vị bao gồm và đòi buộc con người phải có lương tâm ngay thẳng.
Lương tâm gồm ba điều:
• Nhận biết các nguyên tắc luân lý;
• Áp dụng vào việc cân nhắc thực tiễn các lý do và lợi ích trong những hoàn cảnh cụ thể;
• Phán quyết về các hành vi cụ thể sắp làm hay đã làm.
Nhờ
phán quyết khôn ngoan của lương tâm, chúng ta nhận ra điều lành đã được
lý trí đưa ra. Người khôn ngoan sẽ chọn phán quyết này. Với lương tâm,
ta chịu trách nhiệm về những việc đã làm. Lời kết án của lương tâm có
thể dẫn ta đến hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi xác định
lỗi lầm đã phạm, lương tâm nhắc nhở ta phải xin ơn tha thứ, làm việc
lành và luôn trau dồi nhân đức nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Con người có
quyền hành động theo lương tâm và trong tự do, để tự mình có những quyết
định luân lý. Không được cưỡng bức ai hành động trái với lương tâm của
họ, hay ngăn cản họ hành động theo lương tâm, nhất là trong lãnh vực tôn
giáo.
2. Rèn luyện lương tâm (X. GLCG 1783 -1785)
Lương
tâm phải được rèn luyện từ nhỏ và phán đoán luân lý phải được soi sáng.
Một lương tâm được rèn luyện tốt sẽ phán đoán ngay thẳng và chân thật.
Việc giáo dục lương tâm rất cần thiết cho những người chịu các ảnh hưởng
tiêu cực và bị tội lỗi cám dỗ làm theo ý riêng và bỏ những giáo huấn
chính thức của Thiên Chúa và Hội Thánh. Giáo dục lương tâm là nhiệm vụ
phải theo đuổi suốt đời. Giáo dục lương tâm bảo đảm tự do và tạo bình an
trong tâm hồn. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường để rèn luyện lương tâm.
Phải kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thập Giá Ðức Kitô, nhờ ơn Chúa
Thánh Thần trợ giúp, và được giáo huấn chính thức của Hội Thánh hướng
dẫn
3. Chọn lựa theo lương tâm (1786-1790)
Khi phải đứng
trước một chọn lựa, lương tâm có thể phán đoán đúng, hợp với lý trí và
luật Thiên Chúa, hoặc phán đoán sai. Ðôi khi gặp những hoàn cảnh không
phán đoán chắc chắn được, ta phải luôn luôn tìm kiếm điều công chính và
thiện hảo, cũng như nhận định đâu là thánh ý trong lề luật Thiên Chúa.
Muốn vậy, ta phải cố gắng giải thích đúng đắn kinh nghiệm của mình và
các dấu chỉ thời đại, dựa vào đức khôn ngoan, lời khuyên bảo của những
người hiểu biết cũng như sự trợ lực của Chúa Thánh Thần và ân sủng của
Người. Một vài quy tắc có thể áp dụng trong mọi trường hợp:
• Không bao giờ được phép làm điều xấu để đạt một kết quả tốt;.
• Luật Vàng: "Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình thì các con hãy làm cho người";
• Ðức ái Kitô giáo luôn luôn đòi chúng ta tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ.
4. Phán đoán sai lầm (X. GLCG 1790-1802)
Chúng
ta phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm. Chủ ý làm
ngược lại với phán đoán ấy là tự kết án mình. Nhưng lương tâm có thể
thiếu hiểu biết nên phán đoán sai về các hành vi sẽ làm hay đã làm. Sự
thiếu hiểu biết và sai lầm đó không phải lúc nào cũng vô tội. Nếu vì cố
tình không chịu rèn luyện lương tâm thì chúng ta vẫn có lỗi. Lời Thiên
Chúa phải là ánh sáng chỉ đường cho chúng ta. Phải lãnh nhận Lời Chúa
trong đức tin, trong kinh nguyện, và đem ra thực hành. Ðó là phương thế
để rèn luyện lương tâm.
IV. Kết Luận
Vì tự do của
con người có giới hạn và có thể lầm lạc, nhưng họ vẫn phải chịu trách
nhiệm về những hành động của họ, nên họ cần phải làm theo tiếng nói của
lương tâm. Tự do không có nghĩa là muốn nói gì hay làm gì thì làm. Mặt
khác, những điều kiện về kinh tế và xã hội, chính trị và văn hóa cần
thiết để thực thi tự do cách chính đáng, lắm khi bị phủ nhận và vi phạm.
Khi xa lìa luật luân lý, con người làm thương tổn sự tự do của chính
mình, làm nô lệ cho tính ích kỷ, cắt đứt tình huynh đệ với đồng loại và
nổi loạn chống lại ý Chúa (X. GLCG 1740). Muốn cho hành động phù hợp với
luân lý, con người cần một lương tâm ngay thẳng được hướng dẫn bời Luật
Tự Nhiên và các giáo huấn của Tin Mừng. Mỗi người phải chịu trách nhiệm
về việc đào luyên lương tâm của mình. Tuy nhiên sống theo lương tâm
không phải là dễ nếu không có ân sủng của Chúa. Nhờ tác động của ân
sủng, Chúa Thánh Thần soi sáng chúng ta trong việc đào luyện lương tâm
và dẫn chúng ta đến sự tự do thiêng liêng để chúng ta trở thành những
người tự nguyện cộng tác vào công trình của Người trong Hội Thánh và thế
giới (X. GLCG 1742-1748).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét