Thứ Tư, 6 tháng 4, 2011

Phát triển nuôi trồng thủy sản tại các tỉnh Nam Bộ

http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn

 Nuôi trồng thủy sản (NTTS) ở nước ta trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng nhanh trên các mặt diện tích, năng suất, sản lượng và giá trị kinh tế, trong đó khu vực Nam Bộ mà trọng tâm là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có đóng góp quan trọng. Thực hiện Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP của Chính Phủ và Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, NTTS đã không ngừng phát triển ở các tỉnh Nam Bộ, mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực. Tuy vậy, việc phát triển NTTS đã bộc lộ một số bất cập cần giải quyết như: vấn đề quy hoạch, thủy lợi cho NTTS; việc quản lý môi trường – dịch bệnh; hiệu quả của nuôi hòa hợp trong rừng ngập mặn; vấn đề tổ chức sản xuất, quản lý và cung cấp giống, thức ăn; công nghệ nuôi phù hợp với các đối tượng nước ngọt, mặn và nước lợ; vấn đề đa dạng đối tượng nuôi; vấn đề thị trường và thương hiệu…Vì vậy, cần thiết phải có giải pháp phù hợp nhằm phát triển NTTS bền vững trong thời gian tới.
 Tình hình chuyển dịch cơ cấu sản xuất
Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp sang NTTS diễn ra nhanh ở khu vực ĐBSCL. Đến cuối năm 2006, diện tích chuyển đổi đất sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả và đất hoang hóa sang NTTS ở Nam Bộ là 325.612 ha, chiếm tới 81,2 % tổng diện tích chuyển đổi của cả nước, tăng 66 lần diện tích chuyển đổi của vùng so với thời điểm bắt đầu thực hiện Chương trình phát triển NTTS và Nghị quyết 09/2000/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ. Đối tượng nuôi chính ở vùng chuyển đổi là tôm sú ở các tỉnh ven biển và cá tra ở các tỉnh nội đồng. Việc chuyển đổi diện tích đất trồng lúa năng suất thấp và đất hoang hóa sang NTTS đã mang lại hiệu quả rõ ràng, giá trị thu nhập tăng từ 4-10 lần trồng lúa. NTTS là một hướng quan trọng trong việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn trong vùng.
 Phát triển diện tích NTTS
Kết quả thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong những năm qua đã đưa diện tích NTTS ở Nam Bộ không ngừng tăng. Từ năm 1998 đến năm 2002, diện tích NTTS tăng 2 lần trong vòng 5 năm; năm 2006 diện tích nuôi là 747.296 ha đạt 101,2% so với năm 2005. Sự gia tăng diện tích nuôi tập trung ở vùng chuyển đổi từ đất trồng lúa kém hiệu quả và một phần đất hoang hóa sang NTTS.
 Sản lượng NTTS
Sản lượng thủy sản nuôi trong cả nước tăng nhanh. Theo số liệu trong Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch của Bộ Thủy sản, năm 2006 đạt 1.694.271 tấn tăng 17,87% so với năm 2005. Sản lượng NTTS ở Nam Bộ giai đoạn 2001-2006 tăng nhanh, năm 2006 đạt 1.267.375 tấn. Đáng chú ý là 82,9% sản lượng thủy sản nước ngọt là cá tra và cá ba sa. Nuôi nước lợ, mặn chủ yếu tập trung ở các tỉnh ven biển vùng ĐBSCL, Bà Rịa – Vũng Tàu và TP Hồ Chí Minh, trong đó tôm sú vẫn là đối tượng nuôi chính, tiếp đến nhuyễn thể và một số đối tượng cá biển, giáp xác khác. Các địa phương có sản lượng thủy sản lớn nhất ở khu vực Nam Bộ là Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Cà Mau, Bạc liêu…Các tỉnh Nam Bộ có đối tượng nuôi tương đối đa dạng, các nhóm đối tượng nuôi chính là tôm sú, cá tra và cá ba sa, nhuyễn thể, cá biển, tôm càng xanh. Tuy vậy, sản xuất vẫn còn mang tính độc canh. Theo Ban chỉ đạo Chương trình Phát triển NTTS, năm 2006 có 519.130 ha nuôi tôm sú chiếm 69,5% diện tích nuôi trồng của cả vùng; 19.153 ha nuôi nhuyễn thể chiếm 2,6%, 107.679 ha nuôi  cua ghẹ chiếm 14,4%, 3.042 ha nuôi cá tra và cá ba sa  chiếm 0,4%; 8.649 ha nuôi tôm càng xanh chiếm 1,1%. Nuôi cá biển, cá rô phi và một số đối tượng khác chiếm tỷ lệ khoảng 13% diện tích nuôi. Mặc dù diện tích nuôi tôm sú lớn, chiếm 69,5% tổng diện tích nuôi cả vùng nhưng sản lượng chỉ đứng thứ hai sau cá tra và cá ba sa, đứng thứ ba là nhuyễn thể. So với năm 2005, sản lượng tôm sú năm 2006 khu vực Nam Bộ tăng 18,6% (45.572 tấn), sản lượng cá tra và cá ba sa tăng 37,2% (138.712 tấn). Năng suất nuôi tôm sú ở Nam Bộ bình quân 561,2 kg/ha, thấp hơn so với năng suất bình quân của cả nước (577,6 kg/ha), chỉ bằng một nửa năng suất nuôi tôm ở khu vực Nam Trung Bộ, nguyên nhân chính là diện tích nuôi ở các tỉnh Nam Bộ chủ yếu theo hình thức quản canh và quảng canh cải tiến. Năm 2006 diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh ở khu vực Nam Bộ chiếm 6,3% tổng diện tích nuôi tôm, giảm chỉ bằng 66,8% so với năm 2005. Trong vài năm gần đây, diện tích nuôi thâm canh có xu hướng chuyển sang nuôi mật độ thấp hơn, vì ao đầm nuôi chuyên tôm sau nhiều năm dẫn đến môi trường có dấu hiệu suy thoái do tồn đọng chất thải rắn, tiềm ẩn vi sinh vật ở đáy cao; mặt khác công nghệ nuôi tôm áp dụng cho các vùng chưa ổn định, nguồn nhân lực chưa được đào tạo hợp lý và thiếu vốn…Nuôi thủy sản nước ngọt phát triển mạnh, mô hình nuôi rất đa dạng như nuôi trong ao hồ, lồng bè, đăng quầng trên sông, hồ chứa, nuôi luân canh và xen canh cá – lúa…với đối tượng nuôi phông phú. Nhờ những ưu điểm về sản xuất giống, thời gian nuôi ngắn, hiệu quả kinh tế cao nên cá tra hiện là đối tượng nuôi chủ yếu, cá ba sa chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ khoảng 10 -15%. Nuôi cá tra, cá ba sa trong lồng bè trên sông, trong ao hầm, đăng quầng hiện đang phổ biến, cho năng suất và sản lượng rất cao.
Nuôi cá tra trong ao hầm bình quân đạt năng suất 50 – 80 tấn/ha; nuôi trong ao bãi bồi đạt 100-200 tấn/ha, cá biệt với những ao có độ sâu 3-5m, thả cá giống lớn, mật độ cao, thay nước thường xuyên và có hệ thống quạt khí có thể đạt năng suất trên 300 tấn/ha/vụ, nếu nuôi 2 vụ 1 năm có thể đạt năng suất 600 tấn/năm. Năng suất nuôi cá bè đạt 100-200 kg/m3 lồng. Nuôi cá rô phi đơn tính trong ao, lồng bè, chủ yếu phát triển ở các tỉnh ĐBSCL. Sản lượng cá rô phi nuôi năm 2006 ước đạt 12.490 tấn, các tỉnh có sản lượng lớn là Bến Tre, Cần Thơ và năng suất trung bình đạt 16-25 tấn/ha. Nuôi tôm càng xanh chủ yếu theo hình thức bán thâm canh, nuôi xen canh với lúa, nuôi luân canh tôm-lúa, nuôi trong mương vườn, nuôi đăng quầng có hiệu quả kinh tế. Năng suất nuôi luân canh trên ruộng lúa đạt 500-3.000 kg/ha. Sản lượng tôm càng xanh năm 2006 ở các tỉnh ĐBSCL đạt 4.801 tấn, trong đó tập trung ở Trà Vinh 1434 tấn, Bến Tre 1.530 tấn, An Giang 360 tấn. Nhiều hộ thu lãi do nuôi tôm càng xanh từ 50 – 80 triệu đồng/ha, nhiều nơi chuyển dần sang nuôi tôm càng xanh trên diện tích nuôi tôm sú kém hiệu quả.
Tình hình sản xuất giống
Những năm gần đây, ngoài đi nhập nguồn giống từ các tỉnh miền Trung, các tỉnh phía Nam đã khắc phục những khó khăn về điều kiện môi trường để sản xuất tôm giống tại chỗ đạt kết quả tốt. Hiện nay ở Cà Mau có tới 905 trại tôm giống, sản xuất 6 tỷ tôm giống cung cấp cho khoảng 50% nhu cầu thả nuôi trông tỉnh; Trà Vinh có 124 trại, sản xuất hơn 3 tỷ tôm giống. Sản xuất tôm giống tại chỗ đã góp phần quan trọng vào việc làm giảm áp lực thiếu giống đầu vụ cho các tỉnh phía Nam. Ngoài tôm giống, các trại còn triển khai, sản xuất giống một số đối tượng khác như cá, cua và nhuyễn thể đạt kết quả bước đầu. Tuy vậy, do điều kiện môi trường chưa thật thuận lợi, sự phát triển các trại sản xuất giống thiếu quy hoạch, quy mô nhỏ lẻ, việc áp dụng công nghệ vào sản xuất chưa ổn định nên giá thành còn cao, chất lượng giống chưa ổn định. Số lượng trại giống và sản xuất lượng giống cá nước ngọt ở các tỉnh Nam Bộ không ngừng tăng. Năm 2005 đã có 392 trại sinh sản nhân tạo cá giống, sản xuất trên 17 tỷ cá bột các loại (trong đó 3 tỷ cá tra), gần 5 tỷ cá hương, cá giống, riêng cá rô phi đơn tính đực đã sản xuất gần 200 triệu cá hương 21 ngày tuổi và 120 triệu giống tôm càng xanh. Năm 2006 có 326 tỷ cá giống các loại.
Khoa học công nghệ, hoạt động khuyến ngư và thủy sản
Lực lượng cán bộ khoa học của Viện Nghiên cứu NTTS II, các trường đại học, Trung tâm khuyến ngư các tỉnh và Trung tâm quản lý chất lượng vùng…, trong những năm qua đã tập trung nghiên cứu xây dựng và nhập nhiều công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm các loài thủy sản kinh tế; nghiên cứu đa dạng hóa đối tượng nuôi, hình thức nuôi; nâng cao chất lượng giống; phòng trị bệnh và bảo vệ môi trường; sản xuất thức ăn; tái tạo nguồn lợi hồ chứa, vùng cửa sông-ven biển và quản lý tổng hợp thủy sản; xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng, quy chế quản lý nuôi trồng phục vụ phát triển bền vững và tập huấn kỹ thuật cho nhiều người dân. Tuy vậy, chất lượng các công trình khoa học còn hạn chế; một số sản phẩm khoa học khi áp dụng vào sản xuất chưa ổn định và chưa giải quyết được khó khăn trong sản xuất; công tác thú y thủy sản còn nhiều tồn tại; vấn đề quản lý môi trường và phòng trừ dịch bệnh chưa được quan tâm đúng mức.
Nhìn chung, trong những năm qua phát triển NTTS ở khu vực Nam Bộ đã đạt được hiệu quả cao: khai thác tiềm năng đất đai hiệu quả hơn; tạo nghề mới có thu nhập cao; nhiều cơ chế chính sách ra đời tạo hành lang thông thoáng để phát triển sản xuất; các hoạt động dịch vụ NTTS ra đời (dịch vụ giống, thức ăn, chế phẩm sinh học và thuốc thú y thủy sản…); thu hút nguồn vốn, tạo nhiều việc làm cho người dân; hệ thống cơ sở hạ tầng vùng nuôi được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới; làm tăng lượng sản phẩm thủy sản phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; góp phần tăng số lượng lao động NTTS ở các địa phương, góp phần xóa đói giảm nghèo và làm thay đổi bộ mặt vùng nông thôn nghèo ven biển.
Tuy nhiên, phát triển NTTS ở các tỉnh Nam Bộ thời gian qua cũng bộc lộ những tồn tại cần tập trung giải quyết vào những năm tới để có thể phát triển bền vững:
+ Tốc độ chuyển dịch cơ cấu sản xuất diễn ra nhanh chóng trong khi cơ sở hạ tầng phục vụ NTTS, nhất là thủy lợi chưa được đầu tư tương xứng, kịp thời, dẫn đến chưa có đủ hệ thống cấp thoát nước và xử lý nước thải, làm cho môi trường ở một số nơi bị ô nhiễm cục bộ, dịch bệnh xảy ra gây thiệt hại cho sản xuất.
+ Tuy các tỉnh Nam Bộ là vùng sản xuất chủ lực của cả nước nhưng mức đầu tư cơ sở hạ tầng, thủy lợi còn thấp, dàn trải, manh mún và chậm được đầu tư. Nguồn nhân lực chủ yếu là người dân có trình độ thấp nên khả năng tiếp nhận công nghệ thủy sản còn hạn chế.
+ NTTS còn nhỏ lẻ, độc canh, tự phát, thiếu quy hoạch; việc sắp xếp và tổ chức lại sản xuất  còn chậm; công tác quản lý môi trường dịch bệnh, thú y thủy sản còn yếu kém; việc triển khai công tác quản lý vùng nuôi an toàn còn chậm và chưa chặt chẽ…
+ Khả năng áp dụng công nghệ nuôi tiên tiến chủ yếu chỉ thực hiện ở các dự án lớn và các doanh nghiệp, còn hầu hết người dân học nhau làm theo kinh nghiệm, không tuân theo các quy định kỹ thuật. Đa số người dân vùng chuyển đổi là nông dân nghèo, thiếu vốn sản xuất, vốn vay không đủ cho đầu tư đào đắp ao nuôi, mua thiết bị, con giống, thức ăn…nên việc áp dụng công nghệ nuôi không đồng bộ, khả năng rủi ro cao dẫn đến nợ nần khó trả.
+ Hoạt động cảnh báo môi trường còn nhiều hạn chế (tần suất thu mẫu ít, không đại diện) chưa cảnh báo cho người dân về biến động của các yếu tố môi trường trong NTTS, gây khó khăn trong công tác chỉ đạo sản xuất của địa phương. Chất lượng môi trường vùng nuôi tôm ở một số nơi có dấu hiệu giảm sút do hệ thống nuôi không bố trí ao chứa – lắng, ao xử lý nước thải; một số nơi sau nhiều năm nuôi tôm độc canh năng suất cao đã tồn đọng chất thải rắn và tiềm ẩn nhiều vi sinh vật gây bệnh dẫn đến đáy ao có dấu hiệu suy thoái.
+ Việc sử dụng hóa chất và kháng sinh cấm sử dụng ở một số hộ nuôi vẫn diễn ra. Công tác quản lý, kiểm tra chưa được thường xuyên và xử lý thiếu kiên quyết. Sản xuất tôm giống còn phân tán, quy mô nhỏ lẻ, không chủ động được nguồn giống bố mẹ nên chưa đáp ứng chất lượng giống cho nhu cầu sản xuất, phải sử dụng cả con giống kém chất lượng; việc quản lý đối với các cơ sở sản xuất giống chưa chặt chẽ, kiểm soát chất lượng giống chỉ dừng lại ở kiểm dịch; phần lớn lượng giống cung cấp cho nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến không kiểm soát được.
+ Công nghệ nuôi thâm canh chưa ổn định khi áp dụng vào những vùng sinh thái khác nhau, trình độ của người dân còn hạn chế nên những năm đầu khi điều kiện môi trường chưa bị ô nhiễm thì sản xuất thắng lợi, những năm sau gặp khó khăn về môi trường, thiếu vốn dẫn đến hiệu quả sản xuất kém.
+ Hiệu quả của hoạt động khuyến ngư chưa cao, chưa thực sự là cầu nối giữa nghiên cứu và sản xuất; một số đối tượng mới nhập nhưng chưa được nhân rộng cho sản xuất; việc tổng kết các mô hình tiên tiến để mở rộng áp dụng chưa nhiều; hình thức tập huấn đầu bờ cho dân tuy có triển khai nhưng còn chậm.
+ Mô hình nuôi tôm trong rừng ngập mặn (tôm – rừng) áp dụng từ nhiều năm trước đây, hiện phát sinh nhiều tồn tại như: kênh mương, ao đầm bị bồi lắng chưa được nạo vét thông thoáng; nền đáy sau nhiều năm canh tác bị bạc màu dẫn đến sản xuất sinh học của vùng nước giảm; giống thả với kích thước nhỏ nên mức độ hao hụt cao.
Nhìn rõ sự phát triển NTTS tại các tỉnh Nam Bộ trong thời gian qua, đánh giá đúng những kết quả đã đạt được và những tồn tại cần khắc phục sẽ giúp chúng ta tìm được hướng đi cùng những giải pháp thích hợp để tiếp tục phát triển NTTS ở Nam Bộ theo hướng ổn định, bền vững.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét