1. Mở đầu
Lời
nói là hành vi bộc lộ tâm lý, tính cách rõ nhất của nhân vật. Có thể
nói, sự buồn, vui, lo lắng, giận dữ … của nhân vật được các nhà văn trăn
trở để “trần thuật” qua những câu chữ chắt lọc, hình tượng hoá
từ cuộc sống đời thường.
Mỗi nếp nghĩ, tâm hồn, tính cách hay nghệ thuật ứng xử của nhân vật sẽ
để lại những dấu ấn riêng trong lòng bạn đọc bởi cách biểu đạt hành động
ngôn từ. Đọc truyện ngắn Việt Nam hiện đại, người đọc nhận thấy lời
thoại của nhân vật thật “đa sắc thái”. Có lời thoại nhẹ nhàng,
sâu lắng chất chứa sự cảm thông chia sẻ với đồng loại, với nhân tình thế
thái; có lời thoại ồn ào, sôi nổi đầy chất “thanh niên tính”, tuy nhiên cũng có không ít lời thoại thô lỗ, cục cằn, tục tĩu được “bật ra”, “tuôn ra”
bởi nhân vật bị ức chế, tổn thương hay phải chịu sự thiệt thòi nào đó.
Do vậy, việc phân loại các hành động ngôn từ của nhân vật trong truyện
ngắn rất ý nghĩa và thú vị đối với các nhà nghiên cứu ngữ dụng học.
Chửi là hành động phản ứng dùng ngôn từ để thể hiện trạng thái tâm lý bực tức, giận dữ của con người. Theo Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên, chửi được định nghĩa là “dùng những lời độc ác và thô tục để nói phạm đến người khác”. Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên viết: “Chửi là thốt ra những lời cay độc để làm nhục cho hả giận”.
Để nhận diện loại hành động ngôn từ này, các tác giả đưa ra một số dấu
hiệu chủ yếu, đó là: hình thức biểu đạt và đích ngôn trung (lực tại
lời).
Qua
khảo sát hành động chửi của nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam, chúng
tôi nhận thấy hình thức biểu đạt lời chửi khá phong phú. Ở bài viết này,
chúng tôi tập trung tìm hiểu một số cấu trúc lời chửi đặc trưng qua các
dẫn thoại đơn và phức góp phần làm rõ dấu ấn văn hoá trong quá trình sử
dụng ngôn từ của người Việt.
2. Một số cấu trúc đặc trưng của lời chửi trong truyện ngắn Việt Nam
2.1. Khái niệm cấu trúc
Khi bàn về cấu trúc, các nhà nghiên cứu thường đặt nó trong mối tương quan với hệ thống.
I.U.Xtêpanôp cho rằng: “Tổng thể các quan hệ giữa các yếu tố của hệ thống tạo nên cấu trúc của nó. Tổng thể cấu trúc và các yếu tố tạo nên hệ thống.” [5, tr 230]. Theo V.B.Xonsev, cấu
trúc là màng lưới các mối liên hệ và quan hệ giữa các yếu tố”, “cấu
trúc không thể tồn tại bên ngoài các yếu tố của hệ thống ...” [ 10, tr 9]. Các quan niệm trên được tiếp nhận và thể hiện trong hầu hết các tài liệu nhập môn ngôn ngữ học tiếng Việt, như Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt của Mai Ngọc Chừ, Hoàng Trọng Phiến, Vũ Đức Nghiệu, Dẫn luận ngôn ngữ học của Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết.
Vậy cấu trúc được hiểu là tổng thể các mối quan hệ của các yếu tố tạo nên hệ thống.
Tuy nhiên, đề cập vấn đề này cần khẳng định vai trò của quan hệ giữa
các yếu tố tạo nên hệ thống cấu trúc. Bởi tập hợp ngẫu nhiên các yếu tố
không thể trở thành hệ thống. Các yếu tố đó phải có quan hệ quy định lẫn
nhau mới tạo nên hệ thống. Ngôn ngữ là một hệ thống vì nó bao gồm các
yếu tố và quan hệ giữa các yếu tố. Như F.de. Sausure đã khẳng định, “Ngôn
ngữ là một hệ thống trong đó mọi yếu tố đều gắn bó khăng khít, giá trị
của mỗi yếu tố này chỉ là hệ quả của sự tồn tại đồng thời của những yếu
tố khác” [4, tr.200]. “Các yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ chính là các đơn vị ngôn ngữ” [1,
tr.53]. Cấu trúc hệ thống ngôn ngữ là tập hợp các quan hệ của các đơn
vị ngôn ngữ. Các yếu tố đó có thể là quan hệ bên trong (quan hệ nội
dung) hoặc quan hệ bên ngoài (quan hệ hình thức). Cả hai mối quan hệ này
có sự tác động qua lại lẫn nhau.
2.2. Đặc điểm cấu trúc hình thức của lời chửi trong truyện ngắn Việt Nam.
Cấu
trúc hình thức (còn gọi là cấu trúc ngữ pháp) của phát ngôn là cấu trúc
thể hiện mối quan hệ về mặt hình thức giữa các các yếu tố trong chỉnh
thể đó. Xem xét cấu trúc của phát ngôn là xem xét các mặt biểu hiện bên
ngoài để xác định đặc điểm của cấu trúc đó: dạng thức tồn tại, số lượng
yếu tố, mô hình cấu trúc …
Sau đây là một số cấu trúc đặc trưng của lời chửi trong truyện ngắn Việt Nam:
2.2.1. Lời chửi có cấu trúc một từ
Lời
chửi có cấu tạo bằng một từ được xem có cấu trúc ngắn gọn. Tuy vậy, mỗi
câu đều có khả năng thể hiện một nội dung, một sự kiện hay một cảm xúc
nào đấy. Ở dạng cấu trúc lời chửi này các thường xuất hiện các hình thức
biểu đạt sau:
- Dùng quán ngữ: khốn nạn, mẹ kiếp, bố khỉ …
- Dùng điển tích: Bờm, Sở Khanh, Thị Nở, Chí Phèo…
- Dùng các từ chỉ các động vật xấu xí, bẩn thỉu: chó, khỉ, lợn, cú, diều hâu…
- Dùng các từ chỉ sự hạn chế về trí tuệ, nhận thức của con người: thần kinh, khùng, điên, ngu, ngây, hỗn, láo, hèn …
- Dùng nhóm từ chỉ sự liên quan họ tộc: mả (bố), tiên sư, mẹ, mẹ (mày), bố (mày, mi)...
- Dùng các từ chỉ bộ phận sinh dục, hành động giao phối của con người: con c…, l. mẹ, đ. mẹ …
(1). - Ngu. Giám đốc gì mà ngu thế. Hợp đồng thì phải rõ ràng chứ. Thế còn chuyện biếu xén cả trăm triệu đồng, chịu mất luôn chắc.
(Nguyễn Bảo, Người cùng sư đoàn)
(2). Nó văng ngay vào mặt người phụ nữ trẻ một câu tục tằn thô bỉ:
- Đ. mẹ, con đĩ. Muốn chết hả?
Người bị chửi, bất ngờ quá, lại không quen đối đáp, lúng túng:
- Này anh, anh ăn nói cho tử tế nhé.
- Đ. mẹ. Mày là cái đéo gì mà ông phải tử tế.
(Ma Văn Kháng, Mất điện)
(3). - Thế thì hòng chó gì nữa. Mẹ! Chậm có vài giây mà đâm lỡ cả. - Anh
lái xe râu ria tung chân đá mạnh vào một tảng đá cho lăn xuống khe -
Kiểu này cũng phải ngày kia, ngày kìa may ra mấy bố con giời mới cho
người xuống sửa. Tối đến nơi rồi, hoá ra xe mình lại đi cuối cũng mới
uất chứ. Mẹ! Nằm lại đây hai ba ngày thì buồn thối ruột. Biết thế dừng bố nó ở dưới kia lại có cơm nước đàng hoàng.
(Chu Lai, Một khái niệm tình yêu)
Người
chửi dồn nén sự bực tức bằng các phát ngôn ngắn gọn, có tính khẩu ngữ
tự nhiên và phù hợp với tính cách dứt khoát cũng như phù hợp trình độ
nhận thức của nhân vật. Có thể nói, vai chửi, vì lý do nào đấy không
kiềm chế cảm xúc nên buông ra những câu chửi với các mục đích mắng,
trách, rủa… Ở câu chửi ngắn - một từ, vai chửi không dùng từ xưng hô.
Tuy nhiên, qua ngữ điệu, người nghe nhận biết được mục đích, thái độ của
người chửi. Ngữ điệu mạnh và đanh thường gặp trong lời chửi có cấu trúc
này. Mặc dù, ngữ cảnh nảy sinh lời chửi khác nhau nhưng người đọc vẫn
bắt gặp lối chửi, cách dùng từ ngữ giống hoặc tương đồng nhau. Đây là
nét đặc trưng của hành động ngôn từ này. Chửi ngắn nhưng hiệu lực phát
ngôn cao.
2.2.2. Lời chửi có cấu trúc một ngữ
Theo nhận xét của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Ngân, “ở
các nước phương Tây, số lượng các từ chửi khá phong phú, thì trong
tiếng Việt hình thức chửi bằng từ chiếm tỷ lệ ít; thực hiện chức năng
này chủ yếu là các cụm từ” [5. tr.34]. Qua khảo sát lời chửi của
nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại, số lượng câu chửi có cấu
tạo cụm từ chiếm số lượng lớn nhất, tần xuất cao nhất. Phần lớn chúng là
danh ngữ, tính ngữ. Sau đây là một số mô hình đặc trưng của lời chửi có
cấu trúc một ngữ:
Mô hình 1: Đồ + X
(X: danh từ/cụm danh từ; động từ/ cụm động từ; tính từ/ cụm tính từ)
Đồ
|
Danh từ/ cụm danh từ
|
Động từ/
Cụm động từ
|
Tính từ/ cụm tính từ
|
Đồ
|
quỷ
chó
chó đểu
khỉ
con lợn
ma tịt
rắn rết
dê cụ
đĩ
đĩ rạc
đĩ rài đĩ rạc
nông nô
Mỹ Diệm
mặt dày
mặt mo
mặt thớt
mắt đui
mặt sứa gan lim
chó chết
|
trộm cắp
cướp biển
ăn xin
nói khoác
buôn lậu
phản bội
….
|
cuồng
ba hoa
xỏ lá
đểu
dơ
điêu
điêu xảo
ba que
bất hiếu
bất nhân
đê tiện
khốn nạn
lừa dối
dối trá
điêu toa
lộn giống
mất dạy
mắc dịch
toi cơm
|
(4). - Thôi tôi xin quan ông quan bà đừng nói khéo! Đồ đểu! Tôi thề từ nay tao không họ hàng gì với vợ chồng mày nữa!
Nói đoạn ông cụ hầm hầm, cắp ô đi.
(Nguyễn Công Hoan, Mất cái ví)
(5). Nước mắt chảy quanh, bà bước chân ra gần đến cửa, quay lại rít lên:
- Thiếu gì cách lễ tết mà cậu phải làm nhục nhã như thế này!
Ngài trợn mắt:
- Câm ngay! Làm gì mà bô bô cái mồm lên như thế. Đồ ngu như lợn … Cái gì mua được chứ cái này mua được à?
(Nguyễn Công Hoan, Xuất giá tòng phu)
Cũng
với mục đích thỏa mãn cơn tức giận và nhằm coi thường, hạ nhục đối
phương mà vai chửi chủ động tạo ra các phát ngôn chửi đạt mức độ thậm
xưng tối đa. Cách dùng cấu trúc “đồ” kết hợp với một từ để chửi
dường như còn nặng tính khái quát nên người chửi chưa thỏa mãn cơn cáu
giận. Vì vậy, một loạt tổ hợp định danh, định tính X có nghĩa cụ thể
được ví von, so sánh đối phương với những gì xấu xa, tồi tệ nhất kết hợp
với “đồ”. Bằng cách chửi như vậy, sự đanh đá, đáo để và “kém chuẩn” của vai nói mới được thỏa mãn khi cơn cuồng nộ lên đến đỉnh điểm: đồ ngu như lợn, đồ chó chết, đồ đĩ dài đĩ rạc, đồ chết đâm chết chém, đồ lộn giống, đồ chết băm chết vằm ... Các danh ngữ, động ngữ và tính ngữ được sử dụng kết hợp với “đồ”
có hiệu lực tác động trực tiếp và mạnh mẽ kích thích thái độ phản ứng
của người nghe chửi, nhằm đẩy mâu thuẫn lên cao và khó dàn hòa hơn.
Khi phát ra lời chửi có mô hình [Đồ + X]thì
người nói đã bộc lộ rõ ràng thái độ bực tức của mình về phía người
nghe. Qua ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy người nói hướng hành động chửi
rủa của mình vào hai đối tượng: a) người nghe chửi chính là đối tượng
trực tiếp của hành động chửi; và b) người tiếp nhận hành động chửi là
người thứ ba không có mặt lúc cuộc thoại diễn ra. Tuy nhiên, dù đối
tượng tiếp nhận lời trực tiếp hay gián tiếp thì cách chửi [Đồ + X]
ngắn gọn, súc tích vẫn có sức miệt thị, mạt sát danh dự và phẩm chất
người nghe ở mức tối đa. Như vậy với những cách kết hợp trên, các vai
chửi đã nhằm tới cái “đích” đánh giá đối phương thấp kém, xấu xa.
Chiến lược giao tiếp này xuất phát từ cơ sở là con người không ai muốn
bản thân bị xúc phạm. Phía người chửi nếu tìm được cách hạ nhục đối
phương một cách tối ưu thì mới thoả mãn sự bực tức, giận dữ.
*Mô hình 2:
Danh từ chỉ quan hệ thân tộc + đại từ nhân xưng ngôi thứ 2/ thứ 3
Từ chỉ quan hệ thân tộc
|
Từ nhân xưng ngôi thứ 2/ thứ 3
|
Cha
Mẹ
Bố
Cha bố
Mẹ cha (mẹ bố)
Mẹ bố con
Tổ cha
Tổ sư
Tiên sư
Bố tiên sư
Mẹ tiên sư
Cha mẹ tiên sư
Cha tiên nhân
Cha tiên sư nhân ....
|
Mày
Chúng mày
Nó
Chúng nó
|
(6) … Ông xồng xộc trên tay cầm cuộn dây thừng và cái gậy:
- Mẹ mày! Mày có mông có má, có vú có ví rồi động cỡn hả! Ông Pào quát rồi xắn tay áo: Mày muốn sống hay muốn chết hở con đĩ già!
(Ma Văn Kháng, Bãi vàng)
(7). Ông nghe rõ cái giọng lanh lảnh của người đàn bà cho con bú:
- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó. Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa mỗi nhát!
Ông Hai cúi gằm mặt mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.
(Kim Lân, Đứa con người vợ lẽ)
Lời
chửi có cấu trúc là tổ hợp các từ chỉ quan hệ thân tộc kết hợp với đại
từ nhân xưng ngôi thứ 2/ thứ 3 là dấu hiệu đặc trưng của hành động chửi.
Người Việt, dù chửi trực tiếp, gián tiếp hay bóng gió, xa xôi cũng
thường bắt đầu các cụm từ cha mày, mẹ mày, tiên sư bố chúng mày…
Hoặc cụ thể hơn, có lời chửi được sử dụng lớp từ chuyên dụng, mang màu
sắc giới tính phù hợp với đối tượng bị chửi (nam hoặc nữ) như: cha bố con đĩ, tiên sư con đĩ, mẹ bố con quạ cái, tiên sư thằng khốn …
Cấu trúc của phát ngôn trên có vai trò hô gọi, chỉ đích xác đối phương và nhằm mục đích “lôi kéo”
đối phương tham gia vào sự kiện lời nói vốn không có thiện chí mà chủ
ngôn đã thiết lập. Mặt khác, bằng cách này người chửi đã “tự tôn mình cao hơn nhiều trong “quan hệ” dòng họ với người bị chửi” [6, tr.7]. Cho dù tâm lý người Việt Nam ưa hoà thuận, họ luôn chủ trương nhường nhịn - “một sự nhịn, chín sự lành”, trọng chữ “tình” và
đặc biệtchú trọng đến vấn đề tâm linh.Thế nhưng, khi giận dữ, chủ ngôn
chửi đã bất chấp, cố tình vượt mọi rào cản chuẩn mực của “thuần phong mỹ tục”
để thoả mãn trạng thái tâm lý cá nhân. Tóm lại, đây là kiểu tổ chức
hành động ngôn từ có hiệu lực giao tiếp tối ưu - lối chửi sâu cay, độc
ác, mang tính chất thoá mạ tuyệt đối.
* Mô hình 3: Từ chỉ người có tính chất miệt thị + từ chỉ nghề nghiệp/ tính chất nghề nghiệp
Từ chỉ người
|
Từ chỉ nghề nghiệp/ tính chất nghề nghiệp
|
Quân
Lũ
Phường
Bọn
|
Trí thức
Ăn cướp
Ăn trộm
Kẻ cướp
Đạo tặc
Tay sai
Đĩ điếm
Ăn hại
Phàm phu tục tử
Mèo đàng chó điếm …
|
(8). Đường bực mình:
- À, quân chó đểu. Em tao mà nó còn xoay tiền à?
- Em cũng vạch cho nó nghe đến nơi đến chốn đấy chứ. Nhưng nó bảo vì nó phải nói với người ta.
(Nguyễn Công Hoan, Một kiếp người)
(9). Lũ hàng xóm quen đi ngủ sớm, động giấc trở mình, lảm nhảm chửi: “Những quân dực mỡ. Sướng thế!
(Nguyễn Tuân, Nhà Nguyễn)
(10). - Thấy đỏ đừng ngỡ là chín, hả? Mày nên nhớ loại ấy quanh các ga xe hỏa có hàng vốc. Bọn phò phạch, bọn đĩ điếm đó, hiểu chưa?
- Câm ngay cái mồm mày lại!
(Ma Văn Kháng, Một chiều giông gió)
Tương đồng với cấu trúc có dạng [Đồ + X] là nhóm danh từ chỉ người (lũ, quân, bọn…)
kết hợp với các từ chỉ nghề nghiêp hay tính chất nghề nghiệp tạo nên
các cấu trúc định danh quen thuộc C là B hoặc C -V, trong đó C là đối
tượng chửi, được nhận diện bởi các danh từ hoặc đại từ nhân xưng, còn B
và V là những cụm từ mang nét nghĩa âm tính. Như vậy, các câu chửi được
tổ chức theo mô hình này chủ yếu có tính chất bình phẩm, đánh giá sự xấu
xa, hèn kém của đối phương. Đây cũng là một biểu hiện đặc thù gắn rõ
chủ đích của vai trao lời chửi.
2.2.3. Lời chửi có cấu trúc một kết cấu chủ vị hay nhiều kết cấu chủ vị
Lời
chửi có một kết cấu chủ vị (C-V) thường được chủ ngôn đặt đầu lời chửi,
dùng để gọi đích danh người bị chửi. Chủ ngữ là các từ hô gọi mang sắc
thái coi thường, miệt thị, khiêu khích đối phương: thằng, con, đứa, quân, lũ, chúng nó … Trong những trường hợp này, người
bị chửi bị xem thường, bị đánh giá xấu xa, tồi tệ, kém chuẩn, vì thế
đặc điểm của đối tượng chủ yếu được tường minh bằng các mệnh đề - tính
ngữ. Các kết cấu chủ - vị này có tính chất trần thuật, cầu khiến …
* Mô hình 4: Chủ ngữ (Từ xưng hô)// Vị ngữ (tính từ/cụm tính từ)
Chủ ngữ (Từ xưng hô)
|
Vị ngữ (tính từ/ cụm tính từ)
|
Mày
Nó
Hắn
Bay
Chúng
Chúng mày
Chúng bay
Chúng nó
Ông ấy
Bà (ấy)
Con (ấy)
Thằng (ấy)
Quân
….
|
ngu
ngu lắm
ngu như lợn
tinh lắm
bạc thật
chó đểu
vô tích sự
vô lương tâm
chết bầm
chết băm chết vằm
mặt sứa, gan lim
….
|
(11). Khi thấy chậm giờ, ông Lý nghiến răng nói:
- Chúng nó ngu như lợn. Người ta cho đi xem bóng đá chứ ai làm gì mà cũng phải bắt. Rồi quan thấy không đủ số, lại chửi ông không tận tâm.
(Nguyễn Công Hoan, Tinh thần thể dục)
(12). Một cái bóng cao lớn nhảy vào cùng với tiếng quát nhỏ khàn khàn, nặng nề như phủ chụp lên gian nhà:
- Thằng chết bầm! Giơ tay lên coi!
(Chu Lai, Anh Hai Đởm)
Khi
mâu thuẫn lên đỉnh điểm và để dồn trút sự bực tức lên đầu đối phương
nên chủ ngôn chửi tuôn ra chuỗi ngôn từ có tính chất thoạ mạ, nguyền
rủa, báng bổ với lời lẽ nặng nề, thô tục. Tuy vậy, tính chất lập luận
trong câu chửi dài khá chặt chẽ. Chúng thể hiện khá đầy đủ các nhân tố
chi phối lời trao (hô gọi, nội dung, thái độ). …
(13). - Thôi đồ đĩ trăm thằng, đĩ nghìn thằng, đĩ voi giày, đĩ ngựa xé mau mau mặc quần áo vào, chẳng các mẹ mày sượng mặt lắm rồi.
(Nguyên Hồng, Bỉ vỏ)
(14). - Người ta có hoài con cũng không thèm gả cho cái thứ mày. Mày là đồ khốn nạn! Tao
chỉ dạy cho mày ăn ở trung hậu, mày học ở đâu những cái thói ba que của
con nhà mất dạy. Mày bêu tao, mày làm nhục tao với ông Tú.
(Nguyễn Công Hoan, Tắt lửa lòng)
2.2.4. Lời chửi có cấu trúc một đoạn văn
Lời
chửi có cấu trúc đoạn văn là sự tập hợp nhiều câu có mục đích chửi
mắng. Lời chửi dạng này dài, có vần điệu nhịp nhàng nhưng mang tính ám
chỉ và thể hiển thái độ quyết liệt của vai chửi. Bên trong cấu trúc đoạn
chửi có câu ngắn, câu dài. Câu ngắn thường dùng để kêu van, kêu gọi
người phân chứng. Câu dài là để kể tội, mạt sát, đay nghiến, đe doạ,
nguyền rủa đối phương.
(15). Bà Khoáng thêm:
-
Đời nó mới mười mấy tuổi đầu, mà đã đi ăn cắp đi lừa, làm hại khối con
cái nhà người ta đấy, cô ạ. Sao Giời Phật không sai quỷ sứ quật chết
tươi nó đi, còn để nó sống làm gì. Thằng ấy còn ngày nào, nó còn làm tan
cửa nát nhà người ta ngày ấy. Sau này không khéo quân này bán cả nước
mà chơi gái đấy.
(Nguyễn Công Hoan, Một kiếp người)
(16). Mặt
găm xuống cái sàng, bà không dám ngẩng đầu lên vì tiểu thư Mùa mặc bộ
đồ cộc, hở nách mỏng tang ở cạnh cái dây phơi la liệt váy áo, đang nhảy
chồm chổm, chao chát:
-
Cha tiên nhân đứa nào ăn không ăn hỏng lấy của tao cái đồng hồ Lông din
giá hơn mười vé nha! Bà báo cho mà biết, duyên ai phận nấy chớ mà ghen
nồng. Ừ bà là gái cave đấy! Bà thuê thằng Nhớn nó làm vệ sĩ cho bà, bà
nuôi nó, bà cho nó tiền, để nó bồi dưỡng sức khỏe để nó ôm ấp bà đấy.
Này đừng có nói bà đã chán chê mê mải vì khách chơi nó vầy vò, nay lại
còn quyến rũ thằng Nhớn vì bà là con nặc nô dâm đãng chưa đã cơn thèm
nhé! Cave là nghề của bà. Còn thằng Nhớn nó là tình nhân của bà. Hai
việc khác nhau nhé.
(Ma Văn Kháng, Con nhà làm bún)
(17). - Cả
ông nữa. Ông còn liếc ngang liếc dọc con mắt xanh mỏ đỏ nào nữa thì tôi
cho mẹ nó một nhát cho xong đời đấy, hiểu chưa? Chó nào, chủ ấy chứ!
Đ.mẹ không có tao nằm ngửa ra đấy thì lấy c. mà đổ vào nồi à? Nói cho mà
biết, không có tiền của của bà thì mày lấy đâu đồng hò mà đeo, quần áo
sang trọng mà mặc, xe máy mà đi. Mày mở mày mở mặt nhờ con cave này đấy,
hiểu chưa? Chứ cái con nhà làm bún như mày chỉ đáng giặt xilip cho bà
thôi, con sãi ở chùa thì quét lá đa thôi, chứ tưởng của báu đấy, hả?
(Ma Văn Kháng, Con nhà làm bún)
3. Kết luận
Bước
dầu khảo sát hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn
Việt Nam trên phương diện hình thức cấu trúc, chúng tôi rút ra một số
kết luận sau:
Chửi
là hiện tượng ngôn ngữ quen thuộc với nhiều người Việt. Mặc dù khi trực
diện với lời chửi, ai cũng cảm thấy khó chịu và ít nhiều đều có hành
động phản ứng. Lời chửi có những biểu hiện khá phong phú về cung bậc,
tạo nên bảng màu cực kỳ sinh động và phong phú như: chửi rủa, chửi mắng,
chửi bới, chửi đổng, chửi tục, chửi đểu … Mỗi lối chửi như thế đều có
dấu hiệu hình thức đặc trưng để nhận diện.
Cấu
trúc lời chửi rất đa dạng, phong phú. Có lời chửi ngắn, có lời chửi
dài. Cấu trúc biểu đạt đó phụ thuộc vào ngữ cảnh, thói quen ngôn ngữ của
chủ ngôn. Tuy vậy, ngữ liệu cho thấy số lượng lời chửi có cấu trúc cụm
từ và kết cấu C/V chiếm nhiều nhất. Đặc biệt, chúng ta có thể khái quát,
mặc định các mô hình cấu trúc này. Thế nhưng, người Việt vẫn cảm thấy
không nhàm chán khi dùng chúng. Phải chăng, ở lời nói nói được xem “kém chuẩn mực”
văn hoá này có sức chi phối, tác động mà theo người nói là sẽ làm thay
đổi nhận thức, hành động của người nghe theo chiều hướng tích cực hoặc
tiêu cực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu
1. Mai Ngọc Chừ, Hoàng Trọng Phiến, Vũ Đức Nghiệu (1998), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (1998), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình ngữ dụng học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4. Sassure, F. De (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb KHXH, Hà Nội.
5. Kasêvich, V.B (1998), Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, Nxb Giáo dục.
6. Nguyễn Thị Tuyết Ngân (1993), Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá trong các lối chửi của người Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1.
7. Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
8. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục.
9. Sonsev, V.M (1973), Ngôn ngữ là cơ cấu hệ thống kiến trúc, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
* Dẫn liệu:
1. Chi hội nhà văn Quân đội (2002), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb QĐND, Hà Nội.
2. Nguyễn Công Hoan (2003), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Ma Văn Kháng, 50 truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn hoá Sài Gòn, 2006.
1. Ma Văn Kháng (2009), Trốn nợ - Tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
2. Kim Lân (2008), Vợ nhặt, Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Chu Lai (2002), Truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
4 Nguyễn Huy Thiệp (2003), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Nguyễn Tuân (2010), Truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét