Gần con trong gang tấc nhưng Nguyễn Thị Liệu quê ở Lục Ngạn, Bắc
Giang đã chẳng thể nào chạm được tới con mình chỉ bởi vì lòng tự ti của
một người mẹ không có tiền. Liệu đã không được may mắn như nhiều người
khác khi đi xuất khẩu lao động. Bệnh tật, bị chủ đánh đã khiến cô phải
trở về nước sớm hơn dự định với hai bàn tay trắng. Thế nên trở lại quê
hương cô đã không đủ bản lĩnh để trở về ngôi nhà của mình. Có gia đình
nhưng Liệu lại phải sống lang thang như một kẻ không nhà. Để rồi cuộc
đời đưa đẩy, cô thành gái bán hoa. Và hôm nay đây cô ngồi kể lại cho tôi
nghe về những bước đi lầm lỡ của cuộc đời mình tựa như một lời xám hối.
Liệu lấy chồng khi mới vừa tròn mười tám tuổi. Gia đình nhà chồng cô
nghèo lắm. Liệu vẫn còn nhớ như in khi cô bước chân vào nhà chồng, đồ
đạc chả có gì ngoài bốn bức tường hoen ố, trống trơn. Chồng cô lại là
người mù chữ. Cũng bởi vì quá nghèo nên chồng Liệu không được đến trường
như những bạn bè cùng trang lứa. Cuộc đời anh từ bé đến lớn cũng chỉ
biết đến có ruộng đồng nên tính tình cục cằn thô lỗ. Dù biết chồng có
biết bao nhiêu nhược điểm vậy mà không hiểu vì lẽ gì mà cô cứ chết mê,
chết mệt. Biết rằng lấy chồng nghèo thì cuộc đời cô sẽ phải chịu nhiều
vất vả nhưng cô vẫn quyết tâm xây dựng hạnh phúc với người đàn ông mà
mình yêu thương. Rồi cô có con. Cuộc sống từ đó mới thực sự là một thử
thách cam go đối với đôi vợ chồng trẻ. Gia đình cô nhiều khi còn không
có đủ cơm mà ăn.
Hồi đó ở quê có rộ lên phong trào đi xuất khẩu lao động sang Đài
Loan, nhà nhà rủ nhau đi, người người rủ nhau đi xuất khẩu lao động. Hơn
nữa cũng đã có một số người đi trước gửi tiền về xây nhà, mua sắm đồ
đạc nên mọi người càng tin hơn đó là một chân trời mới. Hai vợ chồng cô
khi ấy cũng không thể đứng nhìn sự nhộn nhịp, rộn ràng trong hướng làm
kinh tế mới của những người trong thôn. Bao nhiêu đêm suy đi tính lại,
vợ chồng cô quyết định sẽ cắm đất vay vốn ngân hàng để lất tiền cho cô
đi xuất khẩu lao động. Nhưng cắm đất chưa đủ, cô đành đi theo diện vay
vốn của công ty. Sau này sang bên đó làm được việc, họ sẽ khấu lương để
trừ nợ dần.
Ngày cô ra đi, đứa con gái mới chưa tròn một tuổi. Thương con rất
nhiều nhưng vì miếng cơm manh áo, vì muốn tương lai của con sau này sẽ
sáng sủa hơn nên cô đành nhắm mắt mà đi.
Sang bên đó, tháng đầu tiên người ta ứng trước lương cho cô gửi tiền
về nhà trả nợ. Số tiền đó dù chưa đủ cho chồng cô trả nợ ngân hàng nhưng
cũng gieo vào lòng cô niềm tin về một tương lai tươi sáng. Mộng ước về
một cuộc sống đầy đủ cứ chứa chan trong lòng một người phụ nữ xa quê.
Nhưng ai có ngờ đâu sau đó họ không trả thêm cho cô đồng nào. Người ta
bảo, vì cô đi theo diện của công ty nên giờ làm được bao nhiêu phải trả
lại cô ty. Một tháng, hai tháng rồi nhiều tháng sau đó cô không nhận
được bất kì khoản tiền nào để gửi về cho chồng. Đau đớn và chua xót, cô
nhận ra mình đang bị lừa. Thế rồi cô lăn ra ốm. Mà đã ốm thì phục vụ chủ
không tốt nên cô lạ bị người ta đánh. Có lần ông chủ đánh cô tới mức
không lết nổi đôi chân. Đã thế cô lại không có cách nào để liên lạc với
gia đình.
Kể từ khi đặt chân tới đất nước Đài Loan xa xôi, lạ lẫm đêm nào cô
cũng khóc. Cô khóc vì nỗi nhớ con cào xé. Khóc vì thương người chồng
đang nuôi hi vọng nơi quê nhà và cô khóc cho số phận bất hạnh của mình
Chấp nhận xa chồng, xa con mà chẳng có được kết quả nào xứng đáng.
Hợp đồng lao động của cô là hai năm nhưng quá tuyệt vọng vì công sức
mình bỏ ra chẳng thể mang tiền về giúp gia đình nên cô xin về sớm hơn dự
định. Cô làm thế đương nhiên người ta quy cho cô cái tội phá ngang hợp
đồng nên càng có cớ không trả cô thêm đồng lương nào. Hành trang trở về
của cô khi ấy chỉ còn một thân xác tả tơi và một nỗi đau không tả xiết.
Về đến sân bay rồi nhưng cô không biết sẽ đi đâu. Có một điều cô biết
rất rõ là cô không thể trở về nhà với hai bàn tay trắng. Cô không còn
mặt mũi nào trở về gặp lại chồng, con và hàng xóm láng giềng. Trong một
lá thư chồng cô nhờ người khác viết hộ có thắc mắc: “Sao người ta đi gửi
tiền về ầm ầm, đằng này cô đi chẳng gửi được đồng nào về là sao?”. Cô
chẳng biết giải thích sao với chồng cô nữa. Mà có thể cô nói anh ấy cũng
không tin. Chính vì lẽ đó cô càng không dám trở về nhà.
Đêm đầu tiên trở về Việt Nam cô thậm chí không có tiền để mua nổi một
chiếc bánh mỳ. Cô lang thang, rúm ró ở một góc công viên. Và cô lại
khóc. Cô khóc vì không hiểu sao cuộc đời mình lại ra nông nỗi này. Khi
ấy cô ao ước giá như vợ chồng cô đừng nuôi mộng làm giàu sang phú quý
thì có lẽ giờ cô đang quây quần bên chồng con. Bởi có những thứ còn quý
giá hơn sự đầy đủ về vật chất.
Sáng hôm sau cô lê đôi chân vì đói, vì rét để đi xin việc. Cô nghĩ cô
sẽ cố gắng làm việc thật chăm chỉ để gửi tiền về cho chồng và cho con.
Rồi cô xin được vào bán quần áo cho một cửa hàng trên phố Xuân Thủy,
quận Cầu Giấy. Nhưng lương chưa đầy một triệu đồng một tháng chỉ đủ cho
cô trang trải tiền thuê nhà và những sinh hoạt thiết yếu khác. Cô xin
nghỉ việc và lại bắt đầu hành trình xin việc với một công việc mới hơn.
Có gia đình giới thiệu cô vào giúp việc cho một gia đình bà chủ quán
gội đầu, thư giãn. Vào đó cô chỉ phải trông con cho người ta và làm
những công việc lặt vặt trong nhà. Công việc không quá vất vả mà cô lại
được bà chủ trả lương hậu hĩnh. Vì không phải chi phí gì nhiều nên mấy
tháng sau cô tích cóp được một số tiền nho nhỏ gửi về cho con. Bế con
người ta trên tay mà cô lại như bị ai xát muối khi nghĩ về đứa con bé
bỏng của mình. Khi cô đi nó chưa tròn một tuổi, giờ sáu năm trôi qua
chắc nó cũng đã lớn lắm rồi. Mỗi khi chiều xuống, nỗi nhớ về đứa con gái
cứ dâng lên ngập lòng. Cô muốn chạy ngay về mà ôm nó, mà cưng nó, mà
nựng nó, vỗ về nó. Bao năm rồi nó thiếu thốn tình yêu thương của mẹ. Đã
rất nhiều lần, vì không kiềm chế được nỗi nhớ con, Liệu đã nhảy xe ôm
trở về nhà khi màn đêm buông xuống. Và cũng không biết bao nhiêu lần đôi
chân cứ ngập ngừng phía ngoài cổng ngõ. Gần quá mà sao cô không qua nổi
cái ngưỡng cửa tự ti, mặc cảm chính trong lòng mình để ùa vào trong đó.
Có lần, Liệu về đúng lúc hai bố con đang dọn cơm ra ăn. Nhìn cảnh bố
con đơn côi lòng cô đau tê tái. Liệu muốn lao vào mà ôm lấy họ cho thỏa
nỗi nhớ bao ngày dồn nén nhưng rồi tính sĩ diện lại kéo cô đi. Liệu muốn
mình phải kiếm thật nhiều tiền, khi ấy cô mới có thể ngẩng cao đầu mà
về bên họ. Rồi cô lại lặng lẽ ra đi.
Lần nào cũng vậy, mỗi lần trở về Thủ đô thì quyết tâm kiếm tiền của
cô lại càng dâng trào mãnh liệt. Liệu thấy nếu cứ mãi chỉ bế con và dọn
dẹp nhà cửa cho bà chủ thì tiền kiếm được cũng chả đáng là bao nhiêu.
Nghĩ thế Liệu đã ngỏ ý với bà chủ là cho cô thôi việc trông trẻ và cô
muốn xin làm nhân viên tiếp khách. Nghe cô nói vậy, mắt bà chủ sáng bừng
lên. Bà ta đồng ý ngay và còn động viên cô: “Em còn trẻ lại trông xinh
xắn nên chấp nhận làm nghề này sẽ nhanh chóng có tiền về đoàn tụ với gia
đình”. Và kể từ khi ấy cô dấn thân vào nghề “bán phấn, nuôi hương”.
Quả đúng như những gì bà chủ nói, vì cô trẻ lại đẹp nên đa số khách
khi bước chân vào quán đều chọn cô. Tiền cô kiếm được ngày một nhiều lên
và số lần gửi về cho chồng con cũng dày lên hẳn. Thực lòng cô cũng chỉ
định dấn thân vào nghề nhơ nhớp này một thời gian ngắn thôi. Khi nào
thấy số tiền mình gửi về kha khá thì cô sẽ dừng lại cô sẽ dừng lại và về
đoàn tụ với gia đình. Cô làm tất cả cũng chỉ mong sao sớm có được ngày
trở về bên chồng và con gái. Nhưng rồi, cuốn tiểu thuyết cuộc đời cô lại
một lần nữa viết thêm những trang dang dở. Hành nghề chưa được biết bao
lâu thì cô bị Công an bị bắt và bị đưa vào Trung tâm giáo dục lao động
xã hội số hai Ba Vì. Cô không biết mình còn đủ can đảm trở về gia đình
sau lần vấp ngã đau đớn này hay không
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét