Từ xưa đến nay, hai thái cực
âm dương đã trở thành cái hồn, cái thiêng trong văn hóa đời sống Việt.
Nó không đơn thuần chỉ là quan niệm mà cao hơn còn là triết lý của người
Á Đông. Theo thời gian, những biểu hiện sinh động của tư tưởng âm dương
vẫn hằn sâu trong nếp nghĩ truyền thống và hiện đại. Điều dó minh chứng
sức ảnh hưởng không cùng của triết lý này cả trên chiều rộng và chiều
sâu của một nền văn hóa.
Người
ta nói đến yếu tố âm dương với nhiều bình diện ý nghĩa. Có khi nó là
quan niệm trong tư duy, có khi là triết lý trong đời sống và cũng có khi
là quy luật trong xã hội. Dù được nhìn nhận từ góc độ nào thì âm dương
vẫn được coi là lối tư duy đẹp và giá trị. Nó luôn gắn liền với thực tế
đời sống để thông qua đó mà khẳng định mình. Nhiều nhà nghiên cứu đã tốn
không ít bút lực để giải mã triết lý âm dương. Vậy, âm dương là gì, nó
từ đâu mà có…? Âm và dương vốn là hai trạng thái của những phần tử vật
chất trong vũ trụ. Những phần tử này dưới sự thúc đẩy của lý cấu hiệp
với nhau sinh ra ngũ hành, còn gọi là ngũ đế gồm: Kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ. Ngũ hành chia ở bốn phương và trung tâm, trong đó:
- Kim : ở phía Tây
- Mộc : ở phía Đông
- Thủy: ở phía Bắc
- Hỏa : ở phía Nam
- Thổ : ở trung tâm
Giữa
vạn vật luôn có sự tranh chấp và tương đối, nghĩa là có sự chống chọi
nhau cứ hai, bốn hoặc hơn nữa tương đối với nhau, từ đó tạo nên hai
trạng thái âm và dương đối chọi nhau. Âm là Cái, là tĩnh, là chưa hoàn
bị. Dương là Đực, là động, là hoàn bị. Chẳng hạn: Mặt trăng và mặt trời,
đêm và ngày, ác và thiện, thể xác và linh hồn..v.v. Theo nhiều tài
liệu, vua Phục Hy (2852 – 2737 TCN) là người tìm ra nguyên tắc tương đối
âm và dương. Một đêm, nhà vua mơ thấy con ngựa Rồng lội trên sông Hoàng
Hà mang trên lưng một Hà Đồ gồm những chấm đen và chấm trắng sắp cân
nhau thành hai hình lưỡng nghi: Đen là âm và trắng là dương. Những hình
đó trà trộn với nhau thành bốn hình mới, gọi là Tứ Tượng. Tứ Tượng sinh
ra Bát Quái, Bát Quái lại sinh ra 64 Trùng Quái, sau đó lại sinh ra 4096
hình kép khác, mỗi hình gồm 12 điểm và như thế các hình và các điểm
được nhân lên vô tận. Phục Hy thay những điểm đen bằng một vạch cắt đôi
tương ứng với hai vạch ngắn - - ký hiệu cho âm và một vạch dài, liền vào
điểm trắng – ký hiệu cho dương. Tất cả những hình thức này đều được
trình bày và cắt nghĩa trong bộ Kinh Dịch.
Ngày
xưa cũng như ngày nay, thuyết tương đối âm dương vẫn gắn bó mật thiết
và sâu sắc với văn hóa phương Đông, trong đó có Việt Nam. Nó được biểu
hiện cụ thể, chân phương từ nhiều góc độ trong đời sống. Thứ nhất, âm dương là bản chất của giới tự nhiên.
Trong đời sống, dân tộc nào cũng va chạm với các cặp đối lập “đực –
cái”, “nóng – lạnh”, “cao – thấp”…Với người nông dân, họ chú trọng sự
sinh sôi, nảy nở của hoa màu và con người với hai cặp đối lập Mẹ - Cha
và Đất – Trời. Như vậy, Đất được đồng nhất với Mẹ, còn trời được đồng
nhất với Cha. Việc hợp nhất của hai cặp “Mẹ - Cha” và “Đất – Trời”chính
là sự khái quát đầu tiên trên con đường dẫn tới triết lý âm dương. Đây
là yếu tố nền tảng góp phần thiết lập nên các cặp đối lập mới trong giới
tự nhiên. Từ cặp “Lạnh – Nóng” có thể suy ra: Về thời tiết thì mùa đông
lạnh thuộc âm, mùa hè nóng thuộc dương. Về phương hướng, phương Bắc
lạnh thuộc âm, phương Nam nóng thuộc dương. Về thời gian, ban đêm lạnh
thuộc âm, ban ngày nóng thuộc dương. Hay là, đêm thì tối nên màu đêm
thuộc âm, ngày thì đỏ nên màu đỏ thuộc dương. Cái hay, cái đẹp của triết
lý âm dương nằm ở quy luật thành tố: Không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn
toàn dương, trong âm có dương, trong dương có âm. Nó còn được phản ánh
qua quy luật quan hệ: Âm dương luôn gắn bó mật thiết và chuyển hóa cho
nhau. Hai quy luật này góp phần không nhỏ vào việc đánh giá, nhìn nhận
và khám phá giới tự nhiên từ góc độ bản chất. Thứ hai, những biểu hiện âm dương trong xã hội xưa và nay:
Về mặt tư duy, dân gian vẫn nhận thức theo kiểu: “Chim sa, cá nhảy chớ
mừng; nhện sa, xà đón xin đừng có lo”. Đây là cách diễn đạt quy luật
“trong âm có dương” và “trong âm có dương”. Ngày xưa, ông cha ta còn
hình thành lối tư duy teo quan hệ nhân quả, chẳng hạn: “Sướng lắm khổ
nhiều” hay “Trèo cao ngã đau”. Đây là cách diễn đạt kín đáo của quy luật
“Âm dương chuyển hóa”. Ngày nay, lối tư duy âm dương này được người
Việt vận dụng và kết hợp khéo léo trong đời sống văn hóa. Điều này được
phản ánh qua triết lý sống quân bình: Coi trọng, đề cao sự hài
hòa âm dương trong cơ thể và sự hài hòa trong giới tự nhiên. Đặc trưng
quân bình các yếu tố đời sống tạo ra khả năng thích nghi cao trước mọi
biến cố, hoàn cảnh của dân tộc Việt từ ngàn đời. Về mặt đời sống, triết
lý âm dương được biểu hiện khá rõ từ ba nhu cầu cơ bản nhất: Ăn, mặc và
ở. Với nhu cầu ăn, người Việt nhấn mạnh tính cộng đồng, tính mực thước
truyền thống. Trong đó, tính cộng đồng được phản ánh từ việc ăn tổng
hợp, ăn chung; còn tính mực thước là biểu hiện của khuynh hướng quân
bình âm dương. Nó đòi hỏi người ăn không ăn quá nhanh hay quá chậm,
không ăn quá nhiều hay quá ít, không ăn hết hay ăn còn. Đây được xem là
lối giao tiếp tế nhị, ý tứ khác hẳn tính cách cực đoan, lối giao tiếp
trực khởi của người phương Tây: Khách phải ăn kỳ sạch để tỏ lòng biết ơn
chủ nhà. Tính cộng đồng và tính mực thước trong bữa ăn thể hiện tập
trung qua nồi cơm và chén nước mắm. Nồi cơm ở đầu mâm và chén nước mắm ở
giữa mâm là biểu tượng cho cái đơn giản mà thiết yếu: Cơm gạo là tinh
hoa của đất, mắm chiết từ cá là tinh hoa của nước – chúng giống như hành
Thủy và hành Thổ là cái khởi đầu và cái trung tâm trong Ngũ Hành.
Trong
nghệ thuật ẩm thực của người Việt còn thể hiện khá rõ tính linh hoạt và
tính biện chứng. Theo đó, tính linh hoạt phản ánh trong dụng cụ ăn, đôi
đũa; tính biện chứng ở quan hệ biện chứng âm dương gồm ba mặt: 1/ Sự
hài hòa âm dương của thức ăn. 2/ Sự quân bình âm dương trong cơ thể. 3/
Sự cân bằng âm dương giữa con người với môi trường tự nhiên. Để tạo ra
những món ăn có sự cân bằng âm dương, người Việt phân biệt thức ăn theo
năm thức âm và dương ứng với Ngũ Hành: Hàn (lạnh, âm nhiều = Thủy),
Nhiệt (nóng, dương nhiều = Hỏa), Ôn (ấm, dương ít = Mộc), Lương (mát, âm
ít =Kim), Bình (trung tính = Thổ). Theo đó, người Việt tuân thủ nghiêm
ngặt luật âm dương bù trừ và chuyển hóa khi chế biến. Điều đó lý giải
tại sao chén nước chấm của người Việt dung hòa cả đủ cả Ngũ Hành: Vị mặn
(thủy) của nước mắm, đắng (hỏa) của vỏ chanh, chua (mộc) của chanh
giấm, cay (kim) của tiêu ớt. Để tạo ra sự quân bình âm dương trong cơ
thể, người Việt sử dụng thức ăn như vị thuốc với mục đích điều chỉnh sự
mất quân bình âm dương trong cơ thể. Chẳng hạn: Đau bụng nhiệt (dương)
cần ăn những thứ hàn (âm) như chè đậu đen, trứng gà lá mơ. Đau bụng hàn
(âm) cần dùng các thứ nhiệt dương như gừng, riềng. Để đảm bảo quân bình
âm dương giữa con người với môi trường, người Việt có tập quán ăn uốn
theo mùa và vùng khí hậu. Việt Nam là xứ nóng (dương) nên phần lớn nguồn
thức ăn sử dụng hằng ngày đều thuộc loại bình, hàn âm như thực vật
(rau, củ, quả…). Đồng thời, tính chất dương của xứ nóng là điều kiện vô
cùng thuận lợi cho các loài sản vật mang tính âm phát triển mạnh. Điều
này chứng tỏ bản thân thiên nhiên cũng đã có sự cân bằng. Vào mùa hè,
người Việt thích ăn rau quả, tôm ca (âm) hơn là mỡ thịt. Thức ăn thường
nhiều nước (âm) và có vị chua (âm) với tác dụng vừa dễ tiêu hóa vừa giải
nhiệt. Vào mùa đông, người Việt ở phía Bắc lại thích ăn thịt, mỡ vốn
mang tính dương nhằm giúp cơ thể chống rét. Người dân miền Trung ăn
nhiều ớt (dương) do thực phẩm của họ dồi dào hải sản biển có tính hàn,
bình (âm). Từ văn hóa ẩm thực của người Việt xưa và nay, ta càng khẳng
định vai trò của triết lý âm dương thủy hỏa trong việc tổ chức vũ trụ và
duy trì đời sống.
Với nhu cầu mặc, người Việt rất đề cao hai yếu tố “dương tính” và “âm tính”. Đặt ra vấn đề
màu sắc chẳng hạn: Trong trang phục xưa, màu ưa thích vốn là các “màu
âm tính” phù hợp với phong cách tế nhị, kín đáo của truyền thống dân
tộc. Ở miền Bắc là màu nâu, màu gụ (màu của đất); ở miền Nam là màu đen
(màu của bùn). Trong lễ hội, phụ nữ Việt mặc áo dài màu thâm hoặc nâu.
Ngày nay, màu sắc của trang phục có phần đa dạng hơn theo hướng “dương
tính” do ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây. Thường thấy, trong xã hội hiện
đại đàn ông mặc Âu phục, phụ nữ mặc áo nhiều màu kể cả đỏ hoặc hồng. Do
giao thoa với văn hóa mới từ bên ngoài nên chiếc áo dài cổ truyền Việt
Nam dần được cải tiến thành áo dài tân thời từ những năm 30 của thế kỷ
này. Bên cạnh những cải tiến theo hướng phô trương cái đẹp hình thể một
cách trực tiếp theo kiểu phương Tây (dương tính hóa) như: Bó eo, ôm sát
thân, nổi ngực… thì áo dài tân thời vẫn tiếp tục kế thừa và phát triển
cao độ phong cách kín đáo (âm tính hóa). Chính sự khêu gợi một cách
nhuần nhị, kín đáo đã tô điểm tính cách “dương ở trong âm”. Vì lẽ đó, áo
dài Việt Nam ngày càng phổ biến rộng rãi và trở thành biểu tượng cho y
phục truyền thống dân tộc.
Với
nhu cầu ở, người Việt đặc biệt chú trọng vấn đề “phong thủy”. “Phong”
và “thủy” là hai yếu tố quan trọng nhất tạo thành tạo thành vi khí hậu
của một ngôi nhà. Phong là gió (thuộc dương); thủy là nước, tĩnh hơn,
thuộc âm. Trong nhà, nếu có gió quá nhiều hoặc nước tù quá đọng đều
không tốt. Người ta vẫn xây dựng các bình phong để lái gió hoặc dựng hòn
non bộ để điều thủy (âm dương điều hòa) là vậy. Ngoài ra, tất cả các
chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau bằng “mộng”. “Mộng” là cách
ghép theo nguyên lý âm dương, nghĩa là: Phần lồi ra của bộ phận này
phải khớp với chỗ lõm tương ứng của bộ phận khác. Kỹ thuật này tạo nên
sự liên kết rất chắc chắn mà vẫn linh động giúp tháo dỡ dễ dàng. Khi cần
cố định các chi tiết của ngôi nhà thì dùng đing tre vuông tra vào các
lỗ tròn (âm – dương). Khi lợp nhà, người Việt dùng ngói âm dương: Viên
sấp, viên ngửa khác với ngói ống Trung Hoa. Trong hình thức kiến trúc thường coi trọng bên trái và số lẻ. Tất cả đều từ triết lý âm dương mà ra.
Thứ ba, những biểu hiện âm dương trong tín ngưỡng xưa và nay.
Với
tín ngưỡng phồn thực (phồn = nhiều, thực = nảy nở), người Việt tái
khẳng định sự tồn tại của triết lý âm dương. Thực tế, đây chỉ là hai mặt
của một vấn đề. Ở Việt Nam, tín ngưỡng phồn thực biểu hiện ở hai dạng:
Thờ cơ quan sinh dục và thờ hành vi giao phối. Dễ dàng nhận thấy điều
này ở các nhà mồ Tây Nguyên hoặc tục “giã cối đón dâu” của người Việt.
Chiếc trống đồng – biểu tượng sức mạnh và quyền uy của người xưa thực ra
là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực. Ngay cả hình ảnh về
chùa Một Cột (âm) được đặt trên một cột tròn (dương), cột tròn lại đặt
trong cái hồ vuông (âm)… đều liên quan đến tín ngưỡng phồn thực. Không
phải ngẫu nhiên mà cái mõ bằng gỗ (mộc) đặt ở bên trái (phương Đông) là
dương, cái chuông bằng đồng (kim) ở bên phải (phương Tây) là âm. Tiếng
mõ và chuông tạo âm dương hòa hợp.
Với
tín ngưỡng sung bái tự nhiên, ông cha ta coi trọng tín ngưỡng đa thần,
lấy chất âm tính làm căn bản. Chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn
đến lối sống tình cảm, trọng nữ; theo đó mà các nữ thần chiếm ưu thế
(tục thờ Mẫu). Người Việt xưa còn thờ cả động và thực vật. Theo truyền
thuyết, tổ tiên người Việt là giống “Rồng Tiên”. Tiên – Rồng là một cặp
đôi chỉ có trong lối tư duy theo triết lý âm dương. Đó cũng là hai loài
biểu trưng cho phương Nam và phương Đông trong ngũ hành.
Với
tín ngưỡng sung bái con người, người Việt đặc biệt coi trọng mối liên
hệ giữa âm và dương. Theo người xưa, chết là từ động thành tĩnh nên với
triết lý âm dương thì hồn đi từ cõi dương (trần gian) sang cõi âm (âm
phủ). Với niềm tin chết là về với tổ tiên (“Sống gửi thác về”), người
Việt rất coi trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tục xưa tin rằng dương
sao âm vậy và cũng có một cuộc sống ở cõi âm như cuộc sống người trần
trên dương thế. Tức là, người chết cũng ăn uống và tiêu pha như người
sống. Do vậy, ông cha ta vốn coi trọng lễ đốt mã trong ngày cúng giỗ.
Người sống sắm sửa quần áo, giường màn, bát đĩa, xe cộ, thuyền bè cho
người chết; thậm chí còn đốt hình nhân để hóa người hầu hạ kẻ đã khuất.
Tóm
lại, triết lý âm dương trong đời sống văn hóa Việt xưa và nay biểu hiện
chủ yếu ở các góc độ: Tự nhiên, xã hội lẫn tín ngưỡng. Nó góp phần tôn
vinh giá trị truyền thống mà vẫn dung hòa với vẻ đẹp hiện đại trong mỗi
nếp nhà người Việt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét